Thứ Hai, ngày 15/05/2023, 23:21

Đấu tranh phản bác quan điểm "Nhân quyền cao hơn chủ quyền quốc gia"

LỤC VIỆT DŨNG
Học viện Chính trị khu vực I

(GDLL) - Trong nhiều thập kỷ qua, các thế lực phản động, thù địch không ngừng lợi dụng khẩu hiệu “nhân quyền cao hơn chủ quyền quốc gia” với nội dung đề cao quyền con người ở vị trí tối thượng, còn quốc gia chỉ là thứ yếu, nhằm mục đích can thiệp vào các công việc nội bộ, xâm phạm chủ quyền của các quốc gia độc lập. Quan điểm này đã tuyệt đối hóa tính phổ biến mà bỏ qua tính đặc thù của quyền con người, đề cao mặt tự nhiên mà không chú ý đến mặt xã hội là con người không thể sống đơn độc, tách mình ra khỏi cộng đồng. Bài viết cung cấp những luận cứ để đấu tranh phản bác quan điểm “nhân quyền cao hơn chủ quyền quốc gia”; đồng thời, khẳng định nhân quyền không thể tách rời độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia.

Ảnh Minh họa (Nguồn ảnh: https://xaydungdang.org.vn/)

Quyền con người là đặc quyền tự nhiên vốn có của con người; được cộng đồng quốc tế, các quốc gia thừa nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm bằng hệ thống pháp luật quốc gia và quốc tế. Thực tiễn cho thấy, trách nhiệm bảo đảm quyền con người trước hết và chủ yếu thuộc về quốc gia; mỗi quốc gia có quyền quyết định thực hiện những biện pháp phù hợp với các điều kiện về kinh tế, xã hội, văn hóa như xây dựng hệ thống chính sách, pháp luật, tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật... Nếu quốc gia phải chịu sức ép, can thiệp từ các nước khác mà không được độc lập, tự quyết những vấn đề nội bộ của mình thì quyền con người trong quốc gia đó khó được bảo đảm. Có thể khẳng định mối quan hệ giữa quyền con người với độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia là không thể tách rời. Tuy nhiên, trong nhiều thập kỷ trở lại đây, các thế lực thù địch, phản động thông qua các website rfi.fr, Đài Tự do Châu Á... đã tuyên truyền, thực hiện quan điểm “nhân quyền cao hơn chủ quyền quốc gia” hòng can thiệp vào công việc nội bộ, phủ nhận thành tựu đã đạt được trong bảo đảm nhân quyền của Việt Nam. Các đối tượng này đã tuyệt đối hóa tính phổ biến; mặt tự nhiên của quyền con người với luận điểm cá nhân và quyền của họ phải được đặt ở vị trí tối thượng, là tuyệt đối, bất khả xâm phạm. Dựa trên quan điểm này, các thế lực thù địch, phản động đã sử dụng chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền”, thực hiện các cuộc “cách mạng sắc màu”, “cách mạng đường phố” xâm phạm đến chủ quyền của nhiều quốc gia không chỉ bằng thủ đoạn can thiệp quân sự mà còn qua các kênh truyền thông, không gian mạng trong bối cảnh thế giới phẳng 4.0. Vấn đề đặt ra đó là phải chỉ ra những hạn chế, sai lầm của quan điểm này; đồng thời khẳng định quan điểm đúng đắn của Đảng và Nhà nước Việt Nam: “quyền con người gắn liền với độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia”[1].

1.Luận cứ đấu tranh phản bác quan điểm “nhân quyền cao hơn chủ quyền quốc gia”

Một là, phê phán, phản bác nội dung tuyệt đối hóa tính phổ biến của quyền con người

Quan điểm “nhân quyền cao hơn chủ quyền quốc gia” đã tuyệt đối hóa tính phổ biến mà bỏ qua tính đặc thù của quyền con người; đây là nội dung sai lầm bởi lẽ tính phổ biến và tính đặc thù của quyền con người là không thể tách rời nhau. Trên phương diện triết học, xem xét tính phổ biến và tính đặc thù của quyền con người phải gắn với cặp phạm trù cái chung - cái riêng; cái chung luôn tồn tại trong cái riêng như một bộ phận của cái riêng và tác động qua lại với những yếu tố còn lại của cái riêng; tính phổ biến gắn với cái chung, tính đặc thù gắn với cái riêng. Tính đặc thù là biểu hiện cụ thể của tính phổ biến, hay là sự cụ thể hóa của tính phổ biến. Tính phổ biến tồn tại thông qua tính đặc thù nên chắc chắn không thể có việc chỉ có tính phổ biến tồn tại một cách độc lập, đơn nhất. Từ cơ sở của phương pháp luận triết học, có thể khẳng định quyền con người vừa có tính phổ biến, vừa có tính đặc thù; đó là hai mặt không thể tách rời của quyền con người. Hơn nữa, khi xem xét tính phổ biến cần phải chú ý đến bản chất quyền con người là bình đẳng về tư cách chủ thể của quyền con người chứ không phải cào bằng về mức độ hưởng thụ các quyền[7]. Bên cạnh đó, quan điểm này cũng tuyệt đối hóa mặt tự nhiên mà không nhìn thấy mặt xã hội của con người, tuyệt đối hóa quyền của cá nhân mà bỏ quên quyền của cộng đồng, tách rời cá nhân ra khỏi cộng đồng, đi ngược lại với các quy luật tự nhiên là mỗi con người không thể tồn tại một mình mà luôn tương tác với những người khác trong xã hội. Nếu quyền của cá nhân là tuyệt đối thì xã hội sẽ không tồn tại. Tự do của mỗi người phải đặt trong mối tương quan với tự do của người khác trong cộng đồng. Việc tuyệt đối hóa tính phổ biến và mặt tự nhiên của quyền con người đã khẳng định “nhân quyền cao hơn chủ quyền quốc gia” là quan điểm có tính siêu hình, phiến diện, không xem xét quyền con người một cách toàn diện, với đầy đủ các thuộc tính vốn có của nó.

Hai là, phê phán, phản bác hành vi xuyên tạc nội dung các của nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc tế về bảo đảm quyền con người

Xuất phát từ bản chất của quyền con người, cũng như mối quan hệ giữa cá nhân và quốc gia; pháp luật quốc tế cũng nhấn mạnh nội dung quyền con người và chủ quyền quốc gia là không thể tách rời. Điều 1 của Hiến chương Liên Hợp Quốc và hai Công ước quốc tế về quyền con người ICCPR, ICESCR (1966) đều khẳng định “mọi dân tộc đều có quyền tự quyết”; quyền này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng bởi việc hiện thực hóa nó là điều kiện cần thiết để bảo đảm tính hiệu quả, thúc đẩy, củng cố việc hưởng thụ quyền con người của các cá nhân. Nội dung của quyền tự quyết nhấn mạnh mỗi quốc gia, dân tộc có quyền tự do quyết định mà không có sự can thiệp từ bên ngoài về chế độ chính trị, sự phát triển kinh tế, xã hội và văn hóa. Việc các quốc gia, dân tộc bị can thiệp, lệ thuộc hay bóc lột bởi nước ngoài là vi phạm các nguyên tắc, cũng là vi phạm các quyền cơ bản của con người và trái với Hiến chương Liên Hợp Quốc. Từ những quy định trên của pháp luật quốc tế, có thể thấy rằng việc các thế lực thù địch lợi dụng khẩu hiệu “nhân quyền cao hơn chủ quyền quốc gia” trên cơ sở bóp méo nguyên tắc “bảo đảm quyền con người là nghĩa vụ chung của cộng đồng quốc tế” để thực hiện các hành vi hòng can thiệp vào chủ quyền, công việc nội bộ của Việt Nam và các quốc gia độc lập là vi phạm nguyên tắc “bình đẳng về chủ quyền giữa các quốc gia”, “không can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác”.

Ba là, Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khẳng định: Quyền con người gắn với độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia

Trên cơ sở chuẩn mực về quyền con người được Liên Hợp Quốc và cộng đồng quốc tế thừa nhận, cùng với thực tiễn lịch sử đất nước, “quyền con người gắn với độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia” là một trong những tư tưởng nền tảng, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Chủ quyền quốc gia và nhân quyền là một thể thống nhất, không thể tách rời. Quyền con người là những giá trị phổ biến toàn cầu nhưng cũng có tính đặc thù gắn liền với lịch sử, truyền thống, văn hóa của mỗi quốc gia, dân tộc. Bảo đảm quyền con người trước hết và chủ yếu thuộc trách nhiệm của mỗi quốc gia. Đại hội XIII của Đảng đã xác định mục tiêu “lấy con người làm trung tâm”; bảo đảm quyền con người và phát triển con người toàn diện, trên cơ sở “kiên quyết, kiên trì bảo vệ chủ quyền, lãnh thổ, lợi ích quốc gia - dân tộc”[3]. Như vậy, có thể thấy độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia là điều kiện tiên quyết, vì thế, không có cái gọi là “nhân quyền cao hơn chủ quyền quốc gia”. Tuy nhiên, quốc gia cũng phải thực thi chủ quyền để xây dựng cuộc sống bình yên, ấm no, hạnh phúc cho người dân. Điều này thể hiện mối quan hệ biện chứng giữa chủ quyền quốc gia với nhân quyền và trở thành định hướng chính trị quan trọng trong mọi hoạt động bảo đảm quyền con người của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

2.Một số giải pháp tăng cường đấu tranh phản bác quan điểm “nhân quyền cao hơn chủ quyền quốc gia” để chống phá Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Ảnh Minh họa (Ảnh: Minh Trường)

Thứ nhất, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là điều kiện cần thiết để bảo đảm tính hiệu quả, thúc đẩy, củng cố việc hưởng thụ quyền con người. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, lợi ích quốc gia - dân tộc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, để phát triển đất nước[3]. Mục tiêu cao cả nhất của độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội không gì khác đó chính là giải phóng con người khỏi áp bức, bóc lột, bất công; đi đến một xã hội tự do, bình đẳng, hạnh phúc cho mỗi cá nhân và cả cộng đồng. Trong quá trình kiên trì mục tiêu nói trên, cần tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị, tất cả vì “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Thứ hai, tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng công tác nghiên cứu lý luận, đặc biệt là trong lĩnh vực quyền con người trên nhiều cách tiếp cận, làm cơ sở cho các hoạt động đối nội và đối ngoại của đất nước. Việc nghiên cứu phải được tổ chức cơ bản, toàn diện, tổng thể các vấn đề về quyền con người; tập trung xác định rõ vị trí vấn đề quyền con người trong chủ nghĩa xã hội, mối quan hệ giữa quyền con người với chủ quyền quốc gia, độc lập dân tộc, với Hiến pháp và quy định pháp luật, các điều kiện bảo đảm nhân quyền... nhằm hình thành luận cứ khoa học trên cơ sở pháp luật quốc tế, thực tiễn quốc gia phục vụ cho hoạt động bảo vệ và đấu tranh trên lĩnh vực quyền con người.

Thứ ba, nâng cao hiệu quả đối thoại, đấu tranh trên lĩnh vực quyền con người. Chủ động và nâng cao chất lượng đối thoại về quyền con người: Xác định các chủ thể đối thoại phù hợp nhằm làm sáng tỏ, tạo sự thống nhất, đồng thuận trong nhận thức của các chủ thể tham gia đối thoại về chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về quyền con người. Tích cực đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng; đặc biệt, phải kiên định với mục tiêu, lý tưởng của Đảng; bình tĩnh, sáng tạo, giành thế chủ động trong đấu tranh trên vũ đài không gian mạng, góp phần làm thất bại các âm mưu lợi dụng chiêu bài dân chủ, “nhân quyền cao hơn chủ quyền quốc gia”, “nhân quyền không biên giới”... hòng can thiệp vào công việc nội bộ, xâm phạm độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh và ổn định chính trị của đất nước.

Thứ tư, tăng cường tuyên truyền, phổ biến, giáo dục đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm quyền con người, quyền và nghĩa vụ công dân nhằm nâng cao nhận thức của đội ngũ đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức và nhân dân. Trên cơ sở đồng thuận về nhận thức trong toàn thể xã hội sẽ chuyển hóa thành hành động cụ thể của mỗi cá nhân, tích cực tham gia công cuộc bảo vệ, kiến thiết đất nước; xây dựng, thực thi chính sách, pháp luật về quyền con người, quyền công dân; chủ động trong đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch nói chung, quan điểm “nhân quyền cao hơn chủ quyền” nói riêng.

Thứ năm, bảo đảm điều kiện vật chất - kỹ thuật, trang thiết bị, phương tiện phục vụ đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch nói chung, luận thuyết lợi dụng dân chủ, nhân quyền nói riêng trên không gian mạng nhằm bảo vệ chủ quyền quốc gia trong bối cảnh cuộc cách mạng 4.0.

Kết luận

Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khẳng định: “Quyền con người gắn liền với độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia”. Thực tiễn lịch sử đã chứng minh quan điểm này là hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với các nguyên tắc của pháp luật quốc tế. Quyền của mỗi cá nhân chỉ được bảo đảm khi quốc gia được độc lập, có chủ quyền toàn vẹn và đầy đủ. Trên cơ sở đó, quốc gia mới có điều kiện thực thi các chính sách, pháp luật phát triển đất nước thịnh vượng, đem lại cuộc sống bình yên, ấm no, hạnh phúc cho người dân.

Tài liệu tham khảo:

[1]Ban Bí thư Trung ương Đảng (1992), Chỉ thị số 12-CT/TW ngày 12/7/1992 về Vấn đề quyền con người và quan điểm, chủ trương của Đảng ta.

[2]Ban Bí thư Trung ương Đảng (2010), Chỉ thị số 44-CT/TW ngày 20/7/2010 về Công tác nhân quyền trong tình hình mới.

[3]Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, tập II, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

[4]Phạm Thị Mai (2021), Phê phán quan điểm “Nhân quyền cao hơn chủ quyền quốc gia” dưới góc nhìn triết học, http://lyluanchinhtri.vn

[5]Trần Thị Thúy Ngọc (dịch) (2016), Phê phán luận điểm sai lầm “Nhân quyền cao hơn chủ quyền”, http://philosophy.vass.gov.vn

[6]Nguyễn Đức Thắng (2007), Thực chất của luận thuyết “nhân quyền cao hơn chủ quyền”, https://www.tapchicongsan.org.vn

[7]Tính phổ biến và tính đặc thù của quyền con người từ phương diện triết học, https://vusta.vn


Đọc thêm

Đảng Cộng sản Việt Nam mang bản chất giai cấp công nhân

Tác giả: Ngô Hảo Nhi

(GDLL) - Giữ vững bản chất giai cấp công nhân, kiên quyết đấu tranh phản bác các luận điệu sai trái, xuyên tạc về bản chất giai cấp công nhân là hai nhiệm vụ có mối quan hệ chặt chẽ, đặt ra thường xuyên trong công tác xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam. Bài viết nhận diện các luận điệu sai trái, lệch lạc và đưa ra các luận cứ, luận chứng cùng thực tiễn nhằm đấu tranh phản bác các luận điệu sai trái, thù địch xuyên tạc về bản chất giai cấp công nhân trong giai đoạn hiện nay.

Vững bước đi theo Chủ nghĩa Mác-Lênin là sự lựa chọn đúng đắn, tất yếu của Đảng và Dân tộc Việt Nam

Tác giả: Nguyễn Thị Dung - Kiều Hưng

(GDLL) - Chủ nghĩa Mác - Lênin mãi luôn là thành tựu vĩ đại trong sự phát triển của tư duy và trí tuệ loài người về lý luận phát triển xã hội. Lý luận của học thuyết này được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng, phát triển sáng tạo vào điều kiện thực tiễn cách mạng, đưa dân tộc Việt Nam tiến lên hiện thực hóa khát vọng hùng cường. Bài viết khẳng định sự lựa chọn chủ nghĩa Mác - Lênin của Đảng và dân tộc Việt Nam là hoàn toàn đúng đắn; đồng thời, phản bác các luận điệu sai trái, xuyên tạc, phủ nhận vai trò của chủ nghĩa Mác - Lênin trong sự nghiệp cách mạng của Việt Nam.

Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng trong Tác phẩm “Thường thức chính trị” vào xây dựng Đảng bộ Học viện Chính trị khu vực I hiện nay

Tác giả: Nguyễn Vĩnh Thanh

(GDLL) - Chủ tịch Hồ Chí Minh là người sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, tư tưởng của Người về xây dựng Đảng được thể hiện trong nhiều bài nói, bài viết, trong số đó “Thường thức chính trị” là tác phẩm nổi bật trình bày về nội dung xây dựng Đảng. Bài viết phân tích nội dung xây dựng Đảng trong tác phẩm và nêu lên những định hướng vận dụng vào công tác xây dựng Đảng tại Đảng bộ Học viện Chính trị khu vực I ngày càng trong sạch, vững mạnh, tiếp nối truyền thống tự hào, vẻ vang 70 năm hình thành và phát triển.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết, thống nhất trong Đảng - giá trị vận dụng trong công tác xây dựng Đảng hiện nay

Tác giả: Lê Tuấn Vinh - Nguyễn Thị Thanh Nhàn

(GDLL) - Bài viết khái quát những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết, thống nhất trong Đảng, đánh giá khái quát việc thực hiện nội dung này trong công tác xây dựng Đảng của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nêu lên những vấn đề đặt ra và một số giải pháp nhằm phát huy giá trị cốt lõi này trong công tác xây dựng Đảng thời gian tới.

Phát triển tổ chức cơ sở đảng với vai trò là hạt nhân chính trị ở cơ sở, là cầu nối giữa Đảng với Nhân dân

Tác giả: PGS.TS. Lê Văn Cường

(TG) - Khái niệm tổ chức cơ sở đảng được gọi chung cho tất cả Đảng bộ cơ sở và chi bộ cơ sở tùy thuộc vào số lượng đảng viên và yêu cầu nhiệm vụ cụ thể từng đơn vị cơ sở. Thời gian qua, nội dung phát triển tổ chức cơ sở đảng với vai trò là hạt nhân chính trị, cầu nối giữa Đảng với Nhân dân luôn được Đảng Cộng sản Việt Nam chú trọng: “Chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đảng viên cũng từng bước được nâng lên, trên cơ sở thực hiện nghiêm các quy định của Đảng, đặc biệt là Kết luận của Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII về vấn đề này”(1).